|
XEM LỊCH ÂM - DƯƠNG
Âm: Chỉ ban đêm, chỉ mặt trăng. Dương: Chỉ mặt trời. Lịch: Phương pháp tính thời gian: Giờ, ngày, tháng, năm.
Âm lịch là phương pháp tính thời gian dựa theo sự vận chuyển của mặt trăng quanh trái đất.
Dương lịch là phương pháp tính thời gian dựa theo sự vận chuyển của trái đất quanh mặt trời.
Thuở ban đầu, con người quan sát thế giới bên ngoài mà có khái niệm về thời gian.
Từ khi mặt trời mọc cho đến khi mặt trời
lặn, bóng tối bao trùm, rồi thấy mặt trăng mọc lên tỏa sáng mát dịu, cho
con người khái niệm về thời gian: Ngày và đêm. Ngày mà ban đêm không
thấy mặt trăng gọi là Sóc, ngày mà ban đêm có trăng tròn là Vọng. Thời
gian từ ngày không trăng nầy cho đến ngày không trăng tiếp theo gọi là
Nguyệt hay Ngoạt (tháng).
Thời tiết thay đổi từ ấm qua nóng bức, rồi mát mẻ và lạnh lẽo, diễn tiến tuần hoàn cho ý niệm về Quý tức là mùa.
Căn cứ vào các hiện tượng thiên nhiên kể
trên, con người chế tạo ra lịch để định ngày thích hợp gieo cấy mùa
màng, và ghi chép các sự kiện lịch sử.
Mỗi vùng dân cư trên thế giới đều có chế
ra lịch, như lịch của Ai cập, của Hy Lạp, của Á Rập, của Trung hoa,...
nhưng tựu chung có hai loại: Dương lịch và Âm lịch.
I. Dương lịch:
Dương lịch là loại lịch phối hợp giữa năm mặt trời và ngày mặt trời.
Có nhiều loại Dương lịch, như lịch của
Hoàng Ðế La Mã Jules César (101-44 trước Công nguyên), [gọi là
Calendrier Julien], lịch của Ðức Giáo Hoàng Grégoire XIII (1572-1585),
[gọi là Calendrier Grégorien], ..v v... Nhưng lịch Grégorien thì hiện
nay được toàn thế giới công nhận và sử dụng.
Một năm Dương lịch là khoảng thời gian mà
trái đất quay giáp một vòng chung quanh mặt trời, bằng 365,25 ngày tức
là 365 ngày lẻ ¼ ngày, tức lẻ 6 giờ. Như vậy, trong 4 năm sẽ dư ra 24
giờ, tức là dư ra 1 ngày. Ngày dư nầy được gọi là ngày Nhuận, và được
đặt là ngày 29 của tháng 2 dương lịch.
Vậy cứ 4 năm dương lịch thì có 1 năm
nhuận, tháng nhuận là tháng hai, bình thường tháng hai có 28 ngày, nhưng
tháng hai nhuận có 29 ngày.
Dương lịch Grégorien lấy năm Giáng sinh Ðức Chúa Jésus Christ làm năm thứ 1 gọi là Công nguyên: trước năm nầy gọi là trước Công nguyên (tính bằng số âm), và sau năm nầy gọi là sau Công nguyên.
II. Âm lịch:
Âm lịch là lịch làm ra căn cứ vào sự vận chuyển của mặt trăng quanh trái đất.
Trên thế giới có nhiều loại Âm lịch: Âm
lịch của Babylone, của Hồi giáo, của Trung Hoa. Các nhà làm Âm lịch đã
cố gắng phối hợp với Dương lịch, để các tiết khí hậu trong một năm được
hợp lý nhứt.
Âm lịch Trung Hoa được phát minh từ thời
Thượng cổ, đời vua Phục Hy (2852 trước Công nguyên). Vua Phục Hy quan
sát sự biến đổi và di chuyển của mặt trăng quanh trái đất mà chế ra Âm
lịch. Tên của ngày tháng năm Âm lịch được đặt theo Can Chi.
Can là Thập Thiên can, 10 can của Trời, gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Chi là Thập nhị Ðịa chi, 12 chi của đất, gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão (Mẹo), Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Khi kết hợp 10 Thiên can và 12 Ðịa chi,
chúng ta được 60 tên gọi, ấy là một chu kỳ, gọi là Lục thập Hoa Giáp. Âm
lịch Trung Hoa còn được gọi là Âm lịch Can Chi, dần dần được hoàn
chỉnh, sử dụng ở các nước phương Ðông chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa
như: VN, Nhựt bổn, Triều Tiên, Mông cổ,..
Do đó, theo truyền thống của dân tộc ta,
Ðạo Cao Ðài sử dụng Âm lịch là chánh, còn Dương lịch là phụ. Các ngày
lễ, vía, ngày hội đều lấy theo Âm lịch.
* Gọi tên tháng Giêng âm lịch:
Từ xưa, mỗi triều đại của Trung quốc đều có thay đổi Chính Sóc. Chính Sóc là ngày mùng 1 tháng Giêng.
- Triều nhà Hạ: Kiến Dần, nghĩa là lấy tháng Giêng là tháng Dần, rồi tính kế tiếp: Tháng 2 là tháng Mão, . . .
- Triều nhà Thương: Kiến Sửu, nghĩa là lấy tháng Giêng là tháng Sửu, rồi tính kế tiếp: Tháng 2 là tháng Dần. . . .
- Triều nhà Châu: Kiến Tý, nghĩa là lấy tháng Giêng là tháng Tý, rồi tính kế tiếp: Tháng 2 là tháng Sửu, . . .
- Triều nhà Tần: Kiến Hợi, nghĩa là lấy tháng Giêng là tháng Hợi, rồi tính kế tiếp: Tháng 2 là tháng Tý, . . .
- Ðến đời vua Võ Ðế, triều nhà Hán, lấy trở lại Chính Sóc Kiến Dần của nhà Hạ, tức là lấy tháng Giêng là tháng Dần, và sử dụng từ thời đó đến ngày nay không thay đổi nữa.
Ðiều nầy thích hợp với quan niệm về vũ
trụ và nhân sinh của người Ðông phương là: Thiên khai ư Tý, Ðịa tịch ư
Sửu, Nhân sinh ư Dần. Làm lịch là để cho nhân dân sử dụng, nên lấy tháng
khởi đầu một năm là Dần thì đó là điều hợp lý.
Lấy theo Kiến Dần, tên các tháng Âm lịch như sau:
- Tháng giêng: | Dần. | - Tháng bảy: | Thân. |
- Tháng hai: | Mão. | - Tháng tám: | Dậu. |
- Tháng ba: | Thìn. | - Tháng chín: | Tuất. |
- Tháng tư: | Tỵ. | - Tháng mười: | Hợi. |
- Tháng năm: | Ngọ. | - Tháng mười một: | Tý. |
- Tháng sáu: | Mùi. | - Tháng mười hai: | Sửu. |
Nếu năm Âm lịch khởi đầu bằng CAN (?) thì tháng Âm lịch khởi đầu bằng CAN (?) theo bảng qui định sau đây:
Năm khởi đầu bằng Can | Tháng Giêng khởi đầu bằng Can | |
Giáp | Kỷ | Bính |
Ất | Canh | Mậu |
Bính | Tân | Canh |
Ðinh | Nhâm | Nhâm |
Mậu | Quý | Giáp |
Thí dụ: Năm nay là năm Canh Thìn thì tháng Giêng là tháng Mậu Dần, nối tiếp tháng hai là tháng Kỷ Mão,...
Một tháng Âm lịch, kể từ lúc không trăng
cho đến lúc không trăng tiếp theo (đúng một tuần trăng) là 29, 53 ngày
mặt trời. Ðây là một số lẻ, nên nhà làm lịch đặt ra: tháng Âm lịch 29
ngày là tháng thiếu (Tiểu ngoạt), và tháng 30 ngày là tháng đủ (Ðại
ngoạt). Các tháng Âm lịch thiếu và đủ xen kẻ nhau.
Do đó, một năm Âm lịch có: 29, 53 x 12 = 354,36 ngày, ít hơn năm Dương lịch vì năm Dương lịch có 365,25 ngày.
Số ngày ít hơn là: 365,25 - 354,36 = 10,89 ngày.
Trong 3 năm, số ngày Âm lịch ít hơn Dương lịch:
10,89 x 3 = 32, 67 ngày.
Ðể phù hợp với năm Dương lịch và không
sai lệnh mấy so với thời tiết trong một năm, thì cứ 3 năm Âm lịch, người
ta thêm vào một tháng Nhuận, để cho số ngày trong 3 năm của Âm lịch và
Dương lịch được gần bằng nhau.
Cho nên, đối với Âm lịch, sau 3 năm có một năm Nhuận và năm Nhuận đó có 13 tháng.
* Gọi tên giờ Âm lịch:
Theo Âm lịch, mỗi ngày được chia thành 12 khoảng thời gian bằng nhau, mỗi khoảng ấy được gọi là giờ Âm lịch.
Giờ Âm lịch được đặt tên theo Thập nhị Ðịa chi, tức 12 con giáp, khởi đầu là giờ Tý lúc 0 giờ.
Sau đây là Bảng chia giờ Âm lịch theo 24 giờ bình thường của mỗi ngày:
- Giờ Tý | : | từ 0 giờ đến 2 giờ. |
- Giờ Sửu | : | từ 2 giờ đến 4 giờ. |
- Giờ Dần | : | từ 4 giờ đến 6 giờ. |
- Giờ Mẹo | : | từ 6 giờ đến 8 giờ. |
- Giờ Thìn | : | từ 8 giờ đến 10 giờ. |
- Giờ Tỵ | : | từ 10 giờ đến 12 giờ. |
- Giờ Ngọ | : | từ 12 giờ đến 14 giờ. |
- Giờ Mùi | : | từ 14 giờ đến 16 giờ. |
- Giờ Thân | : | từ 16 giờ đến 18 giờ. |
- Giờ Dậu | : | từ 18 giờ đến 20 giờ. |
- Giờ Tuất | : | từ 20 giờ đến 22 giờ. |
- Giờ Hợi | : | từ 22 giờ đến 24 giờ, bắt qua 0 giờ hôm sau. |
Như vậy, chúng ta nhận thấy:
* Giờ Tý khởi đầu lúc 0 giờ, nên thời điểm 0 giờ được gọi là Chánh Tý. (Chánh là đứng đầu).
* Giờ Ngọ khởi đầu lúc 12giờ trưa, nên thời điểm 12 giờ trưa được gọi là Chánh Ngọ (đầu giờ Ngọ).
* Vấn đề sụt lại 1 giờ trong Âm lịch:
Những người coi ngày giờ tốt xấu để gả
cưới, dựng nhà, khai trương, khởi hành, . . . đều sử dụng các giờ Âm
lịch sụt lại 1 giờ so với Bảng vừa ghi trên, kê ra như sau:
-
Giờ Mẹo: từ 5 giờ tới 7 giờ sáng.
-
Giờ Thìn: từ 7 giờ tới 9 giờ sáng.
-
Giờ Tỵ: từ 9 giờ tới 11 giờ trưa.
-
Giờ Ngọ: từ 11 giờ tới 13 giờ trưa. vv . . . . .
Chúng ta giải thích điều nầy như sau:
Thầy coi ngày tốt xấu của VN đều xử dụng Âm lịch của Tàu và các sách coi
ngày của Tàu. Các sách coi ngày nầy đều căn cứ vào giờ địa phương của
Tàu, tức giờ Bắc Kinh của họ.
Giờ Bắc Kinh của nước Tàu thì đi trước giờ VN 1 giờ.
Thí dụ: | Lúc Bắc Kinh 24 giờ | thì ở VN là 23 giờ. |
- - - - - - 8 giờ | - - - - - - - 7 giờ. |
Do đó, khi sử dụng sách coi ngày tốt xấu
của Tàu thì phải theo giờ của Tàu, tức là phải lấy giờ VN trừ bớt 1 giờ
cho đúng theo giờ Tàu.
Sau đây là Bảng đối chiếu giờ Bắc Kinh và giờ VN:
Giờ Bắc Kinh | Tương ứng Giờ VN | |
Giờ Mão | 6 giờ đến 8 giờ | 5 giờ đến 7 giờ |
Giờ Thìn | 8 giờ đến 10 giờ | 7 giờ đến 9 giờ |
Giờ Tỵ | 10 giờ đến 12 giờ | 9 giờ đến 11 giờ |
Giờ Ngọ | 12 giờ đến 14 giờ | 11 giờ đến 13 giờ |
Giờ Mùi | 14 giờ đến 16 giờ | 13 giờ đến 15 giờ |
Giờ Thân | 16 giờ đến 18 giờ | 15 giờ đến 17 giờ |
Giờ Dậu | 18 giờ đến 20 giờ | 17 giờ đến 19 giờ |
* Bảng Lục thập Hoa Giáp:
TT | Năm Âmlịch | - Dươnglịch | TT | Năm Âmlịch | - Dươnglịch |
1 | Giáp Tý | 1924 , 1984 | 31 | Giáp Ngọ | 1954 , 2014 |
2 | Ất Sửu | 1925 , 1985 | 32 | Ất Mùi | 1955 , 2015 |
3 | Bính Dần | 1926 , 1986 | 33 | Bính Thân | 1956 , 2016 |
4 | Ðinh Mão | 1927 , 1987 | 34 | Ðinh Dậu | 1957 , 2017 |
5 | Mậu Thìn | 1928 , 1988 | 35 | Mậu Tuất | 1958 , 2018 |
6 | Kỷ Tỵ | 1929 , 1989 | 36 | Kỷ Hợi | 1959 , 2019 |
7 | Canh Ngọ | 1930 , 1990 | 37 | Canh Tý | 1960 , 2020 |
8 | Tân Mùi | 1931 , 1991 | 38 | Tân Sửu | 1961 , 2021 |
9 | Nhâm Thân | 1932 , 1992 | 39 | Nhâm Dần | 1962 , 2022 |
10 | Quý Dậu | 1933 , 1993 | 40 | Quý Mão | 1963 , 2023 |
11 | Giáp Tuất | 1934 , 1994 | 41 | Giáp Thìn | 1964 , 2024 |
12 | Ất Hợi | 1935 , 1995 | 42 | Ất Tỵ | 1965 , 2025 |
13 | Bính Tý | 1936 , 1996 | 43 | Bính Ngọ | 1966 , 2026 |
14 | Ðinh Sửu | 1937 , 1997 | 44 | Ðinh Mùi | 1967 , 2027 |
15 | Mậu Dần | 1938 , 1998 | 45 | Mậu Thân | 1968 , 2028 |
16 | Kỷ Mão | 1939 , 1999 | 46 | Kỷ Dậu | 1969 , 2029 |
17 | Canh Thìn | 1940 , 2000 | 47 | Canh Tuất | 1970 , 2030 |
18 | Tân Tỵ | 1941 , 2001 | 48 | Tân Hợi | 1971 , 2031 |
19 | Nhâm Ngọ | 1942 , 2002 | 49 | Nhâm Tý | 1972 , 2032 |
20 | Quý Mùi | 1943 , 2003 | 50 | Quý Sửu | 1973 , 2033 |
21 | Giáp Thân | 1944 , 2004 | 51 | Giáp Dần | 1974 , 2034 |
22 | Ất Dậu | 1945 , 2005 | 52 | Ất Mão | 1975 , 2035 |
23 | Bính Tuất | 1946 , 2006 | 53 | Bính Thìn | 1976 , 2036 |
24 | Ðinh Hợi | 1947 , 2007 | 54 | Ðinh Tỵ | 1977 , 2037 |
25 | Mậu Tý | 1948 , 2008 | 55 | Mậu Ngọ | 1978 , 2038 |
26 | Kỷ Sửu | 1949 , 2009 | 56 | Kỷ Mùi | 1979 , 2039 |
27 | Canh Dần | 1950 , 2010 | 57 | Canh Thân | 1980 , 2040 |
28 | Tân Mão | 1951 , 2011 | 58 | Tân Dậu | 1981 , 2041 |
29 | Nhâm Thìn | 1952 , 2012 | 59 | Nhâm Tuất | 1982 , 2042 |
30 | Quý Tỵ | 1953 , 2013 | 60 | Quý Hợi | 1983 , 2043 |
Can Chi phối hợp có chu kỳ là 60 , nghĩa
là: Từ năm Giáp Tý nầy cho đến năm Giáp Tý sau, là 60 năm. Chu kỳ 60 ấy
được gọi là Lục thập Hoa Giáp.
Bảng Lục thập Hoa Giáp trên lập thành kể
từ năm Giáp Tý (1924) đến năm Quý Hợi (1983) là đúng 60 năm, bước qua
Giáp Tý sau, ứng với năm 1984, khởi đầu một Hoa Giáp mới.
Tìm năm Âm lịch tương ứng với
năm Dương lịch hay ngược lại:
Sau đây chúng ta có 2 Bảng để tìm năm Âm
lịch tương ứng năm Dương lịch, hay ngược lại: Bảng I các năm trước Công
nguyên (tức trước Chúa Giáng sinh) và Bảng II sau Công nguyên. Cả 2 bảng
đều căn cứ vào năm thứ 1 Chúa Giáng sinh là năm Tân Dậu, cho nên năm -1 (trước Chúa Giáng sanh) là năm Canh Thân).
BẢNG I trước Công nguyên
|
||||||||||||
Chi Can |
Tý | Sửu | Dần | Mão | Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi | Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Giáp | 57 | 7 | 17 | 27 | 37 | 47 | ||||||
Ất | 56 | 6 | 16 | 26 | 36 | 46 | ||||||
Bính | 45 | 55 | 5 | 15 | 25 | 35 | ||||||
Ðinh | 44 | 54 | 4 | 14 | 24 | 34 | ||||||
Mậu | 33 | 43 | 53 | 3 | 13 | 23 | ||||||
Kỷ | 32 | 42 | 52 | 2 | 12 | 22 | ||||||
Canh | 21 | 31 | 41 | 51 | 1 | 11 | ||||||
Tân | 20 | 30 | 40 | 50 | 60 | 10 | ||||||
Nhâm | 9 | 19 | 29 | 39 | 49 | 59 | ||||||
Quý | 8 | 18 | 28 | 38 | 48 | 58 |
Thí dụ: Tìm năm Âm lịch tương ứng với năm 2852 trước Công nguyên là năm vua Phục Hy lên ngôi.
Cách tính: Ðem 2852 chia cho 60 (chu kỳ Can Chi), ta được: 2852 = 47 x 60 + 32 → Số dư của phép chia là 32.
Lấy số dư 32 nầy, dò lên bảng, ta thấy số 32 ứng với Can là Kỷ và Chi là Sửu. Vậy năm 2852 t. C.n. là năm Kỷ Sửu.
BẢNG II sau Công nguyên
|
||||||||||||
Chi Can |
Tý | Sửu | Dần | Mão | Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi | Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Giáp | 4 | 54 | 44 | 34 | 24 | 14 | ||||||
Ất | 5 | 55 | 45 | 35 | 25 | 15 | ||||||
Bính | 16 | 6 | 56 | 46 | 36 | 26 | ||||||
Ðinh | 17 | 7 | 57 | 47 | 37 | 27 | ||||||
Mậu | 28 | 18 | 8 | 58 | 48 | 38 | ||||||
Kỷ | 29 | 19 | 9 | 59 | 49 | 39 | ||||||
Canh | 40 | 30 | 20 | 10 | 60 | 50 | ||||||
Tân | 41 | 31 | 21 | 11 | 1 | 51 | ||||||
Nhâm | 52 | 42 | 32 | 22 | 12 | 2 | ||||||
Quý | 53 | 43 | 33 | 23 | 13 | 3 |
Thí dụ 1: Tìm năm Âm lịch tương ứng với năm 1940.
Cách tính: Lấy số 1940 chia cho 60, ta được: 32 với số dư là 20. Lấy số 20 dò lên bảng, ta thấy số 20 ứng với Can là Canh và ứng với Chi là Thìn. Vậy năm 1940 là năm Canh Thìn.
Thí dụ 2: Bài tính ngược lại: Tìm năm Dương lịch ứng với năm Bính Dần đầu thế kỷ 20.
Cách tính: Dò theo hàng Can để tìm chữ Bính, rồi dò theo hàng Chi để tìm chữ Dần, ta được số 6 ứng với năm Bính Dần. Số 6 nầy là số dư.
Ta đem số 6 nầy cộng với một bội số của 60, thế nào để cho số thành lớn hơn 1900 (vì điều kiện là đầu thế kỷ 20).
Ta thấy: 6 + 60 x 32 = 1926.
Vậy năm Bính Dần là năm 1926.
Lưu ý: Các bội số của 60 gần bằng với 1900 là: 1860, 1920, 1980.
Nếu lấy số 1860 thì năm Bính Dần là 1866. Nếu lấy số 1920 thì năm Bính Dần là 1926. Nếu lấy số 1980 thì năm Bính Dần là 1986.
Ðiều kiện là đầu thế kỷ 20, nên ta chọn năm 1926.
Năm 1860 là cuối thế kỷ 19; năm 1986 là cuối thế kỷ 20, hai số nầy không phù họp với điều kiện của đề bài, nên ta bỏ ra.
Trường hợp số dư là O:
Khi ta làm bài toán chia, ta có dư số là 0 thì chúng ta lấy số 60 mà dò trên bảng.
Nhận xét