DUY THỨC HỌC
Có một nhà tâm-lý-học đã làm một cuộc thí nghiệm bằng
cách nuôi hai con voi con vừa mới đẻ được mang về từ trong một khu rừng:
- Con voi A được cột vào chân một sợi dây nhỏ dài cở 30
m, đầu giây buộc chặt vào một thân cây lớn.
- Con voi B được thả đi tự do trong vườn
Mấy năm sau cả hai con đều lớn. Ông bắt cả hai, cùng cột
mỗi con bằng một sợi giây nhỏ dài cở 30m vào một thân cây. Nhưng con voi A, vì
đã quen với sợi giây từ trước nên không có phản ứng gì lại. Trái lại con voi B
thì vì quá quen tự do đi lại khắp nơi nên bèn bứt giây để tiếp tục tự do trong
khu rừng rộng lớn.
Với con voi A, vì đã bị cột giây từ nhỏ nên khi lớn lên
dù đã có đủ sức mạnh để bức phá sợi giây, nó vẫn không làm. Là vì sao? Tại vì
voi A tin rằng giây chính là một phần của cuộc đời nó. Nó tin rằng cuộc đời nó
chỉ hoạt động trong một vòng tròn bán kính 30m đó mà thôi.
Nó không nghĩ rằng nó có thể đi ra ngoài ranh giới đó. Nó không nghĩ và không cần biết là bên ngoài ranh giới đó, có những rừng
cây rộng lớn, có suối nước trong tươi mát, nào là đồng cỏ xanh tươi. Nó cũng
không suy nghĩ để tìm hiểu rằng bên ngoài thế giới của nó còn có đồi núi bao
la, và đồng hoang chim hót. Nó chỉ bằng lòng với cuộc đời đã có với những bó cỏ
khô được người mang tới cho nó.
Nhiều khi có lủ trẻ nhỏ bắt nó phải làm trò, phải qùi lạy
mới chịu cho nó những khúc mía ngọt ngon.
Như vậy nó sống ở trong tình trạng gò bó mà nào nó có
biết chăng? Cái gì đã khiến cho nó phải chấp nhận hoàn cảnh của nó đã có? Chính
vì tư tưởng hạn hẹp của nó. Trong tư tưởng hạn hẹp của nó đã ăn sâu trong
tiềm-thức nó từ bao giờ mà nó không biết.
Nói theo danh từ nhà Phật thì: “Trong Mạt-Na-Thức của
nó có những chủng-tử trói buộc ý-thức của nó khiến nó không thể hoạt động ra ngoài phạm vi đã quyết
định.”
Đối với loài người, có hàng ngàn sợi giây vô hình đã trói
buộc ta từ bao đời số kiếp mà ta không hay biết! Ta chỉ hoạt động, được suy
nghĩ trong một thế giới vô cùng hạn hẹp, và trở thành nô lệ. Ta tưởng rằng cuộc
đời chỉ bắt đầu bằng một tuổi thơ trong trắng, nhưng cũng không tránh khỏi
những lo âu sợ hãi do sức ép gây nên bởi khó khăn vật chất hoặc tinh thần. Rồi
một ngày một lớn lên, ra đời tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nếu tâm thức
không có một sự thăng hoa đáng kể thì ta sẽ thấy cuộc đời vô vị với đủ tuồng hỉ
nộ ái ố cho đến ngày cùng khi nằm xuống. Chúng ta cũng như những con voi A
trong cuộc thí nghiệm trên mà ta nào có biết!.
Nhưng trái lại, loài người có một trí nhớ cao hơn muôn
loài. Do đó mà một số người hay triết gia bắt đầu tìm hiểu và mơ ước về những
thế giới mới và nhận thức được tâm-thức chúng ta đã trói buộc mà ta không hay
biết. Các nhà tâm lý đã khám phá ra những ý thức, tiềm thức và siêu-thức, nhưng
những điều họ khám phá và tìm ra được thì trên 25 thế kỷ nay đã có đức Phật
Thích-Ca đã khám phá ra rồi mà còn đi xa hơn nữa.
Vậy chúng ta thử tìm hiểu Duy-Thức là gì?
Duy-Thức-Học (Logic of Knowledge) là một khoa-học nghiên
cứu sự nhận-thức của con người về tất cả các sự vật và hiện tượng trong vũ-trụ,
những nhận thức đó. Những tiến triển của tâm-thức lên tới một mức độ càng cao,
đa số do sự suy tưởng hoặc tu tập, như là tham thiền nhập định.
Những sự vật và hiện tượng trong vũ-trụ rất đa dạng và
không thể nào đem ra mà nói hết được nên nhà Phật mới miễn cưỡng đặt ra cho
chúng một cái tên chung là “Pháp”. Bất kỳ việc chi, dầu nhỏ hay lớn, hữu-hình
hay vô-hình, tốt hay xấu, hữu-vi hay vô-vi, chơn-thật hay hư-vọng đều có thể
gọi là “Pháp”. Và từ những nguyên-tắc, những lẽ thường, lý nhỏ cho đến
tôn-giáo, lại cái Luật chung bao gồm Vũ-trụ, làm một với Hư-Không, cũng gọi là
“Pháp”. Nếu đem sự hiểu biết mà nghiên cứu các “Pháp” thì quá phức-tạp nên Phật
mới chia nó ra là 100 Pháp, gồm có:
1 - Tâm-Pháp: có 08 nhóm.
2 - Tâm-Sở-Pháp: có 51 nhóm.
3 - Sắc-Pháp: có 11 nhóm.
4 - Tâm Bất tương ứng Hành-Pháp: có 24 nhóm.
5 - Vô-Vi-Pháp có 06 nhóm.
Mặc dù đã phân chia như vậy, nhưng sự nghiên cứu cũng còn
nhiều việc khó khăn. Người viết chỉ xin nói sơ lược về sự nhận thức đối với các
“Pháp” đó ra sao mà thôi chớ chưa dám đi sâu vào khía cạnh nầy.
Một cậu sinh viên trung-học được thầy giải cho biết 5
giác quan để nhận thức. Đó là:
Mắt (để trông) - Tai (để nghe) - Mũi (để ngửi) - Lưỡi:
(để nếm) - và Da (để tiếp xúc).
Trong cuốn “Bài học thực tiển về cảm-quang-tuyến thuật”
do nhà xuất bản Gabriel ấn hành, Lesourd quan niệm “điện giác” là một trong
“không phải Ngũ-Quan” mà là “Lục-Quan” của ta. Theo ông thì có 6 Giác-Quan,
chung quy chỉ là một “Giác Quan” ở trong óc mà chia ra nhiều chức vụ phân tán
ra nhiều nơi, như:
- “Mắt” dùng những làn điện để “Thấy” gọi là “Thị-Giác”.
- “Tai” dùng những làn điện để “Nghe” gọi là “Thính-Giác”
- “Mũi” dùng những làn điện để “Ngửi” gọi là “Khứu-Giác”
- “Lưỡi dùng những làn điện để “Nếm” gọi là “Vị -Giác”
- “Da” dùng những làn điện để “Cảm” gọi là
“Xúc-Giác”
- Còn “Thần-Kinh-Hệ” và “Tiềm-Thức” dùng những làn điện
để “Biết” gọi là “Điện-Giác”
Cũng theo Lesourd thì mỗi người có “Điện-Giác” khác nhau
từ trình độ đến cách sử dụng và hiệu quả.
Mới đây, năm 1968, trong cuốn “Ngũ-Quan và một vài
giác-quan khác”, do Nouveaux Horizons xuất bản, Robert Froman dựa vào những
phát minh mới nhứt về khoa-học, nhứt là khoa Cơ-Thể-Học, Thần-Kinh-Học để giải
quyết rằng con người không phải “Cảm-Giác” chỉ bằng “Ngũ-Quan” mà thôi. Các dây
thần-kinh chìm ngấm trong sâu thẳm của con người còn nhiều khả-năng để con
người tri-giác vũ-trụ và kẻ khác một cách tinh-vi hơn, nếu biết khai thác hết
các cảm-quan của mình.
Đức Phật nhờ đoạt được “Chánh-Đẳng Chánh-Giác” mà Ngài đã
soi thấu được những phần sâu thẩm nhứt của Tâm-Linh con người và Ngài đã dạy
chúng ta, không những có “Giác-Quan thứ 6” mà còn có “Giác-Quan thứ 7 và 8 nữa”
Khi bắt đầu giảng về “Duy-Thức-Học” thì chỉ có một số ít
cao-đệ (như Đức Di-Lạc Bồ-Tát) hiểu nổi mà thôi. Ngài biết rằng môn này rất
khó, nên mỗi khi có người nào hỏi về một vấn đề gì có liên quan đến
Duy-Thức-Học thì Ngài lại giảng thêm một chút nửa. Do đó sự giảng-huấn của Ngài
bàng bạc ở nhiều bộ kinh, nên không thành một hệ-thống rõ rệt vì đó mà lại càng
khó khăn cho những người tu học sau nầy.
Mùa Thu năm 1783, trên vòm trời xứ Anh và Pháp, có xảy ra
một hiện-tượng người bay luyện trên cao, làm cho mọi người thán phục. Còn những
người không thấy mà chỉ nghe nói lại nên không tin, cho là chuyện thần-thoại. Đến ngày nay, hiện-tượng ấy không còn bị coi là chuyện
hoang đường nữa, mặc dầu nó không thường xảy ra. Những làn điện quang-tuyến, là
những hiện-tượng điện-từ giống như là điện sáng. Tai nào thâu bắt được nó ít ra
phải là tai thu quan-tuyến có khả-năng chuyển thành âm thanh. Người có
điện-giác là người thích nghi để bắt những làn điện quang-tuyến.
Năm 1960, ông Clyde E. Ingalls, giáo sư khoa điện-cơ-học
tại học đường Cornell, quả quyết rằng chính ông đã “nghe” được Radar. Ông cũng
bảo rằng, có nhiều người khác cũng nghe được như ông. Theo ông, cái nghe nầy
không phải dùng bằng lỗ tai thông thường, mà người có điện-giác chỉ dùng bằng
một thứ lỗ tai riêng và cơ quan ấy đến ngày nay vẫn còn trong vòng bí mật.
Mùa Hè năm 1962, bên Nga có loan tin rằng, có một người
đàn bà có thể dùng mấy đầu ngón tay “đọc” chữ in, trong lúc bị bịt mắt.
Cuối năm 1963, ông Youtj, giáo sư tâm-lý-học tại
đại-học-đường Columbia, quả quyết rằng bà Patricia Stanley có thể dùng mấy ngón
tay búp măng của bà mà phân biệt được màu sắc. Suốt mùa Hè năm 1963, trong 50
giờ thí nghiệm, bà Stanley dùng bàn tay đã phân biệt được các màu sắc. Cách
phân biệt màu sắc trong trường hợp trên, người ta gán cho đó là “Giác-Quan thứ
6” (6ième sens) tức là “Điện-Giác”. Các nhà Tâm-Lý gọi lối hiểu biết đó bằng
một danh từ lạ “Tri-Giác Ngoại Cảm” (TGC) mà người Pháp gọi là “Perceptio extra
sensorielle” và viết tắt là:”PES”
Có ba thứ TGC quan trọng nhứt:
a/- Viễn-Cảm (Télépathie): Là khả-năng dùng
một giác-quan nào ngoài các giác-quan thông thường để truyền-đạt
hay thu nhận tư-tưởng, tình-cảm cho người hay từ người ở xa.
b/- Hiển-Thị (Clairvoyance): Là khả-năng
dùng một giác-quan nào ngoài các giác-quan thông thường để ý-thức, những
đối-tượng hay hiện-tượng khách-quan.
c/- Tiên-Tri (Prémonition): là khả-năng
biết trước những việc chưa xảy ra.
Phân tích ba hình thức TGC nói trên, ta có thấy một giác-quan
nào ở trong bóng tối hành-động đó. Chứng minh nó như hiện-tượng lý-hóa không
được mà chối bỏ nó thì không ổn.
Ngày nay ta hiểu được phần nào về môn
học nầy là nhờ ở công ơn của hai vị Bồ-Tát “Thế-Thần” (Vasubandhu) và
“Vô-Trước” (Asanga). Hai vị nầy sống khoảng 900 năm sau đức Phật nhập Niết-Bàn,
vốn tu theo đạo Bà-La-Môn và đã đoạt được một số thần-thông đáng kể. Sau vì
nhận thấy cứ tiếp tục con đường cũ thì không thể tiến sâu thêm được và nhứt là
khó có thể giải-thoát khỏi luân-hồi sanh-tử cũng như khó có thể đáp ứng được
hạnh nguyện cứu đời nên cả hai vị (hai anh em ruột) đều nghiên cứu Phật-Pháp và
sau cùng, quy-y theo Phật. Nhờ có thần-thông cao thâm, hai vị đã xuất hồn lên
cõi trời Đâu-Suất và được đức Di-Lạc Bồ-Tát trực tiếp truyền dạy về Duy-Thức-Học.
Điều nầy nghe có vẻ huyền-bí; nhưng tác phẩm về Duy-Thức của hai vị để lại ngày
nay có hệ-thống và hết sức rành mạch là một bằng chứng.
Sau nầy, các nhà tâm-lý-học Đông-Tây dựa vào một phần các
sự hiểu biết được truyền lại rồi ra công nghiên cứu thêm về một số những
giác-quan mới mà họ gọi là “Tiềm-Thức - Siêu-Thức”. Hai thức nầy có một vài
điểm giống như “Mạt-Na-Thức” (giác-quan thứ bảy) và “A-Lại-Da-Thức”(giác-quan
thứ tám).
Thử nghiên cứu sơ lược từng giác-quan một, thí dụ trái
cam:
1/- “Mắt” hay “Thị-Giác” cho ta những hình ảnh của mọi sự
vật. Ví như: Trái cam màu vàng là đối tượng hiểu biết của mắt nên gọi là “Nhãn-Trần”. Sự hiểu biết do mắt mang lại gọi là “Nhãn-Thức”.
2/- “Nhĩ-Thức” là sự hiểu biết do tai mang lại. Đối tượng
của Nhĩ-Thức là Nhĩ-Trần. Trong thí dụ trái cam thì trái cam không phát ra âm
thanh, nhưng “Nhĩ-Thức” vẫn hoạt động. Ta vẫn nghe “cái không tiếng” của trái
cam.
3/- Về mũi, ta có “Tỉ-Thức” và “Tỉ-Trần”. Là (trái cam có
mùi cam).
4/- Về lưỡi, ta có
“Vị-Thức” và “Vị-Trần”. (trái cam ngọt ngào).
5/- Về thân, ta có “Thân-Thức” và “Thân-Trần” (trái cam
có vỏ sần-sùi nếu ta tiếp xúc với nó).
Vậy thì, dùng cả năm giác-quan kể trên ta cho rằng ta có
một hiểu biết khá đầy đủ về trái cam.
Sự thật thì không phải vậy. Tại sao?
Vì mỗi giác-quan của ta đều phải có một trung khu thần
kinh trong đầu điều khiển. Nếu các trung-khu đó hoạt động tốt thì giác-quan mới
hoạt động được:
- Trung khu thần kinh “thị-giác” điều-khiển “mắt” quan
sát (nhân-trần) - cho nhãn-thức.
- Trung khu thần kinh “thính-giác” điều-khiển “tai“ quan
sát (nhĩ-trần) - nhĩ-thức.
- Trung khu thần kinh “tỉ-giác” điều-khiển (tỉ-trần) -
cho tỉ-thức.
- Trung khu thần kinh “vị-giác” điều-khiển (vị-trần) cho
vị-thức.
- Trung khu thần kinh “xúc-giác” điều-khiển (thân-trần)
cho thân-thức.
Các trung khu thần kinh đó gọi là các “Căn”. Nhờ đó ta có
“Nhãn-căn, Nhĩ-căn, Tỉ-căn, Thiệt-căn, Thân-căn”. Các căn
nầy gọi là các căn vật-lý vì nó nằm ở hệ thần-kinh của mọi người. Các nhà
chuyên môn giải-phẩu y-học có thể tìm hiểu chúng một cách dễ dàng. Riêng “Thân-Căn” gồm cả hệ thần kinh cảm-giác rất
dễ tìm thấy. Trong chiến tranh, có nhiều trường
hợp một binh sĩ bị đạn bắn trúng “Nhãn-Căn”. Mặc dầu anh ta không chết và mắt
vẫn còn nguyên vẹn nhưng anh ta vẫn bị mù. Vì “Nhãn-Căn” đã hỏng, mặc dù mắt
vẫn tiếp xúc với “Nhãn-Trần” nhưng không còn có “Nhãn-Thức” nữa. Vậy thì,
“Nhãn-Thức” phải có “Nhãn-Căn’’ mới hoạt động được. Cũng vậy, đối với “Nhĩ-Căn,
Tỉ-Căn, Thiệt-Căn, Thân-Căn”.
6/- Bây giờ ta hãy thử có một trái cam đặt ở phòng bên
cạnh.
- Mắt ta không nhìn thấy trái cam.
- Mũi ta không ngửi thấy trái cam.
- Tai ta không nghe thấy trái cam.
- Lưỡi ta không nếm thấy trái cam.
- Thân ta không tiếp-xúc với trái cam.
Thế nhưng nếu ai nói có một trái cam ở phòng bên cạnh thì
ta hiểu ngay.
Vậy thì giác-quan nào đã cho ta sự hiểu biết nầy? Thưa
rằng đó là do “Ý-Thức” (thức thứ sáu).
Ý-Thức là một thức rất quan trọng trong mỗi con người, vì
“Ý-Thức” có thể cảm thọ được những hiện tượng vô-thể-chất trong khi năm thức
trước hoàn toàn bất lực.
Ý-Thức có thể tổng hợp những hiểu biết mang lại bởi năm
thức trước. Do đó cho một hiểu biết đầy đủ hơn. Sự hiểu biết bởi năm thức trước
thuần là do cảm thọ, thiếu suy luận, diễn dịch, không có phán đoán, ước lượng,
do đó sẽ bị mờ đi, không hồi tưởng lại được nếu không có ý-thức góp phần suy
luận, tổng hợp, diễn dịch. Ví như, người đọc sách: nếu mắt vẫn nhìn chữ mà
không có ý-thức để ý vào, thì với “Nhãn-Thức không thể hiểu được nghĩa và giá
trị quyển sách, đừng nói chi tới chuyện tường thuật lại những gì đã nói.
Trường hợp không có năm thức trước hổ trợ, ý-thức vẫn
hoạt động được một cách độc lập.
Thí dụ 1: “Tôi tưởng tượng những cảnh thiên đàng, địa
ngục, chỉ bằng ý-thức mà không cần qua năm thức trước (vì những thức trước
chưa tiếp xúc với những cảnh giới đó bao giờ). Chỉ khi nào đưa ra sự sáng
tạo vô thể-chất vào thực tại cụ thể thì ý-thức mới cần tới năm thức”
Thí dụ 2: Họa-sĩ Walt Disney muốn thiết lập một khu
giải trí. Ông phải nhờ ý-thức phác họa mô hình tưởng tượng rồi mới dùng mắt,
tay, thiết lập đồ án và xây dựng theo sự chỉ đạo của ý-thức.
Con người và xã-hội loài người, tiến-hóa hay thối-hóa là
hoàn toàn do quyết định của “ý-thức” sáng tạo. Đúng vậy, “ý-thức” giúp con
người biết suy nghĩ phán đoán làm việc thiện, tu hành, xây dựng đưa con người
lên hàng thánh-nhân. Nhưng nó cũng hay chấp-pháp, mê thanh, mê sắc trần, đưa
con người theo các chiều hướng dục-vọng, mở cho họ những cửa địa ngục sa đọa. Nhà duy-thức-học gọi ý-thức là ”Công vi thủ, tội vi khôi” (nói về công thì thức
nầy hơn hết, còn luận về tội thì nó cũng đứng đầu). Cho nên, tất cả nền văn
minh của nhơn loại đều là sản phẩm của ý-thức sáng tạo.
7/- Cũng như năm thức trước, ý-thức cũng cần phải có một
ý-căn thì mới hoạt động được. Vậy ý-căn nằm đâu? Các nhà y-học với con dao giải
phẩu đã không tìm được ý-căn nơi hệ thần-kinh của con người.
Nói cách khác, ý-thức đã không có một căn vật-lý có thể
trông thấy được mà căn của ý-thức lại là một căn tâm-lý. Căn tâm-lý nầy được
đặt tên là “MẠT-NA-THỨC” (hay thức thứ 7). Vậy “Mạt-Na-Thức” chính là căn của
thức thứ 6 (Ý-Thức). Dựa vào đâu để tìm ra thức nầy? Dựa vào những quan-sát tâm
lý:
a/- Một người đang ngủ, sáu thức trước của họ không còn
hoạt động nhận thức nữa nhưng các cơ quan nội tạng vẫn hoạt động nhịp nhàng không rối loạn. Vậy phải có một
thức nào điều khiển những hoạt động nầy. Người nằm ngủ đó vẫn sống, không phải
là một cây thịt vô trí. Mạt-Na-Thức vẫn chỉ huy các hoạt động. Nếu ta lấy tay
chọt vào hông người nằm ngủ thì vẫn có cử động lăn qua một bên để tránh né. Nếu
ta gãi vào chân, họ lấy chân đá để tự vệ. Nếu ta lấy lông gà dụi nhẹ vào mặt họ
vẫn đưa tay lên phủi chổ bị khích động. Những hành động đó hoàn toàn vô thức,
cho do Mạt-Na-Thức điều khiển mà thôi.
b/- Giả dụ như ta hồi tưởng lại thành phố Saigon mà ta đã
lìa xa từ nhiều năm nay, hình ảnh thành phố đáng yêu ấy hiện ra thật rõ nét và
là đối tượng nhận thức của ý-thức. Vậy thì cái gì đã cất dấu hình ảnh thành phố
nầy trong suốt bao năm qua để hôm nay lại cung cấp ảnh tượng cho ý-thức phân
biệt nhận thức?
Thưa chính là “Mạt-Na-Thức”. Có nhiều khi ta muốn hồi
tưởng lại hình ảnh mà nghĩ mãi không ra, bởi vì Mạt-Na-Thức không cung cấp ảnh
tượng. Nhưng có khi ta không muốn nhớ mà Mạt-Na-Thức cứ cung cấp. Trường hợp
nầy ảnh tượng có thể hiện ra trong giấc mơ. Những hình ảnh đã cất dấu tự bao giờ
(có khi từ kiếp trước) vẫn hiện ra trong giấc mơ mà ta không dùng ý-thức để
kiểm-soát nổi.
c/- Trường hợp những người bị tình nhân phụ bạc,không sao
quên được hình ảnh của người yêu.
Ý-Thức thì muốn chối bỏ, nhưng Mạt-Na-Thức vẫn giữ mãi
hình ảnh người yêu cũ, cả trong lúc thức cũng như trong giấc mơ.
Vậy Ý-Thức muốn nhận thức những ảnh tượng thực-chất bên ngoài thường phải nhờ
tới năm thức trước cung ứng; còn đối với những ảnh tượng bên trong nó cần phải
được sự cung-ứng của Mạt-Na-Thức. Không có Mạt-Na-Thức thì nó hoàn toàn bất lực
trước những hiện-tượng nội-giới.
Mạt-Na-Thức có công quản thủ những ảnh tượng thế giới bên
trong để làm hình thành cho thế giới kiếp sau, nên còn gọi là
“Truyền-Thống-Thức”. Điều này có thể giúp ta giải thích được một vài hiện tượng
về số mạng con người.
d/- Ví như: Cô A xinh đẹp đang độ thanh xuân, có 5 anh
B,C,D,E,F đến xem mắt. Cô dùng ý-thức để quan sát so sánh, phân tách mọi vấn đề
của năm anh đó một cách chính xác, nhưng cô không thương anh nào cả. Ý-Thức
thường không có sự chấp-ngã và hay dùng lý-trí. Đến khi có anh G tới thì cô bị
tiếng sét ái-tình và quyết định sẽ chọn anh G, mặc dầu sự phán đoán bằng lý-trí
cho thấy anh G không có điểm nào nổi bật hơn năm anh kia cả. Trường hợp này
Mạt-Na-Thức của cô có thể đã mang hình ảnh của anh G từ một kiếp nào xa xôi
hoặc một lời thề hẹn biển nào đó đã nằm sẵn trong Mạt-Na-Thức của cô (cất dấu ở
A-Lại-Da-Thức) và nó đã điều khiển cô một cách mãnh liệt đến đỗi cô không có thể quyết định theo lý-trí được.
Nhà thiền-học thường khuyên các đệ tử phải luyện khổ hạnh
để tránh những vấn đề tình-dục và luyến-ái. Vì vấn đề này thường khắc sâu vào
Mạt-Na-Thức để chấp ngã rồi mãnh liệt kéo con người vào vòng luân-hồi sinh-tử
với bao hệ lụy đau đớn.
Nhà bác-học Sigmund Freud nhận xét có 80% những hành động
của con người là do tình-dục điều khiển một cách khéo léo từ trong Tiềm-Thức
(Mạt-Na-Thức) mà ta không biết.
Mạt-Na-Thức mang tánh-chất chấp ngã tạo ra biết bao ý
tưởng ích kỷ tham lam tự ái, ngã-mạn che lấp đi phần Nhân -Tính và Phật-Tính có
sẵn trong mỗi con người. Nó cũng làm trung-gian giữa thức thứ sáu (Ý-Thức) và
thức thứ tám (A-Lại-Da-Thức) trong lãnh vực sinh hoạt giữa nội-giới và
ngoại-giới. Không có đấng Thượng-Đế hay một vị thần, tiên nào có thể làm cho
Mạt-Na-Thức của ta được trong sạch, nếu không phải chính ta.
8/- Như trên đã nói, mọi hình ảnh do Ý-Thức đưa vào, được
Ý-Căn (Mạt-Na-Thức) cất dấu rồi sau đó lại cung cấp để Ý-Thức có thể hồi tưởng lại. Mà cất ở
đâu? Xin thưa rằng để ở trong một kho tàng, đó là A-Lại-Da-Thức (thức thứ tám,
tiếng Phạn gọi là “chứa đựng”). Cũng như thức thứ bảy, ta không tìm thấy nó
dưới hình thức vật-lý, mà nó có thể chứng nghiệm thấy bằng tâm-lý:
a/- Một người bịnh bị chụp thuốc mê rất say đến nổi
bác-sĩ cầm dao mổ bụng cũng không hay biết. Trong trường-hợp này, cả bảy thức
(trong đó có Mạt-Na-Thức) đều không hoạt-động. Nhưng người đó vẫn không chết;
vậy thì thức nào đã điều khiển cơ thể của người đó trong lúc đang nằm trên bàn
mổ? Đó là A-Lại-Da-Thức.
b/- Khi con người mới được tạo hình trong bào thai, phải
trải qua 4 tháng mới tạo thành được các căn
vật-lý. Trong thời gian đó, các thức trước vẫn còn nằm trong trạng-thái
nguyên-thể, chưa tác dụng hiện khởi. Phải có một năng-lực huyền-bí nào đóng vai
trò kết hợp tổ chức hoàn thành hệ thống bộ máy con người.?
Năng-lực huyền-bí đó chính là A-Lại-Da-Thức.
A-Lại-Da-Thức hoạt-động hoàn toàn trong phạm vi nội giới,
rất khó phân loại và nhận thức.
Ta có thể ví nó như bình điện mà các thức khác dùng điện
lực để tạo ra các hiện tượng: ánh sáng, hơi nóng, âm thanh, v.v...Chỉ khác là
bình điện nầy ta không nhìn thấy được bằng mắt thường.
Vì là một kho tàng nên A-Lại-Da-Thức còn được gọi là
“Tàng-Thức”
Nó chứa đựng tất cả mọi nghiệp quả của con người và tồn
tại vĩnh-viễn đối với thời-gian và không-gian. Ngay cả lúc người đã chết, bảy
thức đều tan biến nhưng hình ảnh, suy luận, chấp ngã hoặc các hành vi hướng
thượng hoặc ái-dục của các thức trước được cô động lại thành những chủng-tử và
được cất dấu trong A-Lại-Da-Thức. Tất cả những chủng-tử đó giống như mọi nghiệp
quả của cá nhân để điều hành cho sự tạo thành một kiếp luân-hồi mới phù hợp với
những nghiệp quả mà nó đang mang sẵn.
Trường hợp như những thần đồng (ví như nhạc-sĩ Mozart)
cũng là do những biểu-thức đã thâu nhập từ kiếp trước được cất giữ ở
A-Lại-Da-Thức. Để dễ hiểu về hoạt động của
A-Lại-Da-Thức, xin tóm tắt qua lược đồ ở trang sau.
Khi còn bé, các cụ thường dạy rằng: Đừng làm điều gì
ác, vì có hai vị thần ở hai bên vai sẽ ghi chép tất cả mọi hành động của ta để
đến khi ta chết sẽ trình lên Diêm Vương phán xét.
Hai vị thần đó thật ra chỉ là biểu-tượng của
A-lại-da-thức có thể ví như một tờ giấy trắng. Mỗi khi ta làm một điều ác (hoặc
nghĩ một điều ác) tờ giấy đó được ghi bằng một chấm đen (một chủng-tử xấu). Khi
ta nghĩ hoặc làm một hành động thiện tờ giấy đó được ghi một chấm son (một
chủng-tử tốt). Đến khi ta chết đi, thể xác và mọi giác-quan ngưng hoạt động.
A-lại-da-thức xuất ra sau cùng và vẫn tồn tại dưới hình thức trung-ấm-thân. Dù
ta không nhìn thấy nó nhưng nó vẫn hoạt động trong cõi hư-vô với những ba-động
tuần hoàn mà tần số của các chủng-tử mà nó mang theo.
Trái đất chúng ta đang sống cũng luôn luôn bao phủ bởi
những ba động dưới dạng thức những sóng điện-tử (électromagnétic waves). Những
làn sóng nầy ta không nhìn thấy nhưng ta có thể chứng nghiệm được vì tác dụng
của nó trên kim nam-châm của các la bàn.
Nếu các ba-động của A-lại-da-thức của người chết có một
tần số nằm trong giới hạn tần số của các sóng điện-tữ của trái đất thì trái đất
này vẫn còn phù hợp với nghiệp-lực của người chết và chắc chắn người này sẽ lại
tái sanh trong thế giới này.
Nhĩ Thức
Tĩ Thức
Thiệt Thức
1.------ Thân Thức
Hoạt-động độc-lập của Ý-Thức
Nhãn Thức
Mọi nghiệp-quả của Ý-Thức
2. Ý-thức
3.Tạo nghiệp
4. Mạt-na-thức
5. Cất giấu
6. A-lại-da-thức (kho tàng chứa đựng tất cả mọi chủng tử)
7. Trả nghiệp hoặc tạo nghiệp mới
8. Trả nghiệp
Thế nhưng, trở lại trong kiếp sau, người chết chưa chắc
sẽ lại mang thân xác của con người. Vì sao?
Vì trong giới hạn tần số ba động của trái đất lại chia ra
làm nhiều khu vực nhỏ có liên quan tới các cõi trên ở trong trái đất. Vùng có
tần số cao thanh nhẹ có tương-quan tới cõi thiên (hoặc Thiên-Đàng). Các vùng có
tần số thấp hơn (nhưng vẫn trong giới hạn) tương-quan tới các cõi: Nhân (người)
- Atula - Súc-sinh - Ngạ-quỷ - Địa-ngục.
Giả dụ, một người mà A-lại-da-thức mang những chủng-tử
tuy không tốt lắm nhưng cũng không xấu lắm. Tần số ba-động của nó hợp với trái
đất và người này sẽ luân-hồi làm người.
Nhưng cũng một người trung-bình nhưng lại có một điểm nổi
bật là hết sức dâm đảng chẳng hạn.
Ba-động của A-lại-da-thức của người này tuy cùng phù hợp
với trái đất nhưng tánh dâm đảng ăn sâu làm tần số ba-động hơi xuống thấp một
chút; và người đó sẽ trở lại dưới hình thức một súc sanh (con heo chẳng hạn)
Cũng vậy, một người quá tham lam và bủn-xĩn sẽ trở thành
ngạ quỷ, một người hiếu sát sẽ sa địa ngục.
Trong kinh Lăng-Nghiêm, Phật đã dùng Phật-nhãn soi chiếu
rất nhiều trường-hợp và đã chỉ rõ những nghiệp quả của mỗi loại người cùng
những thế giới mà họ sẽ được chào đón sau khi hết hạn làm người. Đó là cõi trời
Đâu-Xuất, cõi Đạo-Lợi, cõi Tịnh-Độ v.v...
Những người ở cõi này có tâm địa tốt hơn chúng ta nên
luôn luôn thương xót và mong muốn chúng ta được thoát khỏi thế giới hiện nay để
tới những thế-giới tốt hơn với những tần số ba-động phù hợp. Người đó sẽ ở cõi
thiên đàng với những thú vui vô cùng thanh-tao để rồi
tiếp tục tu hành với những bước đường thăng-hoa cao hơn của tâm-thức.
Giả dụ, có một người tu hành cũng đã đến mức khá cao
nhưng chưa tiêu diệt hết hoàn toàn dục vọng. Nhờ ở A-Lại-Da-Thức khá thanh nhẹ,
“linh hồn” (quan niệm linh hồn của dân gian không được đúng như điều Phật dạy,
nhưng được cái dể hiểu. Do đó ta vẫn có thể tạm dùng danh từ này) anh ta “bay”
lên gần tới một cõi thiên đường nào đó. Nhưng ba động linh hồn
của anh còn mang tính chất của dục-vọng mà ở cõi này chỉ toàn là những thú vui
thanh cao mà thôi, không có một mùi vị nào của luyến-ái hạ đẳng dục giới. Do đó
khi tới gần thế giới này anh ta sẽ cảm thấy khó chịu không thoải mái và linh
hồn anh ta sẽ tự động “bay” đi chỗ khác, hoặc bị hấp-lực của thế giới phù hợp
hơn. Không có một con quỷ nào gác cửa thiên đàng không cho anh vào cả, nói cách
khác, con quỷ của dục-vọng còn nằm ngay trong lòng anh ta và nó luôn luôn kéo
anh ta tới chỗ phù hợp với nó.
Tóm lại, ngày nào ta còn mê đắm sắc trần chính là ngày đó
ta còn chối bỏ thiên đàng, chớ các vị chúa, các vị trời hay bất cứ vị nào tu cao hơn
chúng ta cũng luôn luôn mong cho chúng ta tới được “bờ bên kia” và xả bỏ được
những khổ đau của nghiệp lực.
Điều cần nhớ là, tất cả các sinh vật đều có A-Lại-Da-Thức
cả.
Chỉ trừ đất đá, sông biển hay vật vô tri là không có mà
thôi. Còn thì tất cả các loại thực vật và động vật đều có, kể cả những sinh vật
hết sức sơ đẳng như một con vi khuẩn chẳng hạn.
Nghiên cứu về thành phần của mỗi nhận thức là một điều
cần thiết cho Duy-Thức-Học. Lược qua về các thành phần của thức, ta có thể kể
mỗi nhận-thức đều gồm có bốn phần:
- Kiến Phần: phần chủ thể của nhận thức.
- Tướng Phần: phần đối tượng của nhận thức.
- Tự Chứng Phần: kiểm chứng sự khảo sát của kiến
phần xem đúng hay sai.
- Chứng Tự Chứng Phần: kiểm soát lại sự kiểm
nghiệm kể trên.
Ví dụ: Một bức tranh của Picasso là “Tướng Phần”.
Người xem tranh là “Kiến Phần”
Khảo sát xem bức tranh hay đẹp chỗ nào là “Tự Chứng Phần”
Đánh giá trị lại sự khảo sát đó xem đúng hay sai là
“Chứng Tự Chứng Phần”.
Ta có thể dùng bất cứ thức nào để khảo soát các pháp
trong vũ-trụ, nhưng sự nhận-thức thường cũng phải trải qua các thành phần kể
trên. Thế nhưng mặc dầu vậy, sự nhận thức của con người vẫn luôn luôn sai lạc.
Vì sao? Thưa rằng cũng chỉ tại những chủng-tử nằm trong A-Lại-Da-Thức nó làm
cho trí ta kém sáng suốt nên mới sai lầm mà thôi. Một khi đã sai lầm trong nhận
xét (tức vô minh) tất nhiên sẽ đưa tới những
hành động sai lầm và do đó khởi đầu một loạt những chuỗi lầm lạc đưa ta từ
vô-minh đến lão-tử.
Chúng ta hãy cùng nhìn một con sông:
- Một người mang chủng tử mê thích tắm và bơi lội chẳng
hạn sẽ nhìn thấy con sông như một giòng nước mát có thể mang lại cho ta những
cảm-giác sảng khoái.
- Một người thích đánh cá sẽ coi con sông như một mối lợi
cho anh ta.
- Con cá lại coi con sông là một môi trường sinh sống dễ
chịu và sảng khoái.
- Người thích đi du lịch sẽ coi con sông là một phương
tiện để cho anh ta chèo thuyền một cách thích thú, ngắm cảnh vật thanh-tú ở hai
bên bờ sông.
- Loài rồng lại coi con sông là một nơi có thể xây lâu
đài, lầu các.
Con sông vẫn là con sông. Nó không phải là những cái kể
trên. Ta không thể nhìn được thật tướng của nó nếu ta cứ “chấp ngã” mà nhìn nó
theo chủ quan của ta. Mà khi đã chấp ngã tất nhiên ta sẽ hành động sao cho thỏa mãn cái ngã của ta đã. Thế là trong rất nhiều trường
hợp, hành động sẽ sai lầm, sẽ tạo nghiệp xấu.
Chính vì cái nhìn thấy những nhận thức sai lầm của con
người mà Phật đã dạy thuyết “Tam Tánh” mà sự nghiên cứu sâu rộng sẽ đưa chúng
ta đến những nhận xét hết sức sâu sắc về tự tánh của vạn-pháp.
Thuyết “Tam Tánh” gồm có:
1/- Biến Kế Sở Chấp Tánh
2/- Ý Tha Khởi Chấp Tánh.
3/- Viên Thành Thật Tánh.
“Sở Chấp” là do chấp trước mà có.
Thí dụ về con sông trong phần trước, mỗi
người nhận xét theo sự chấp trước của mình, cho nên hình ảnh con sông đã bị sai
lạc đi nhiều do suy luận xét nghiệm của ý-thức vọng tưởng.
Suy rộng ra mỗi sự vật trong thế giới nầy chỉ là hình ảnh
méo mó mà ta đã nhận thức được do sự chấp trước vọng tưởng mà có.. Nó không
phải là hình ảnh thật mà đã phải mang một tánh chất khác đi gọi là
“biến-kế-sở-chấp-tánh”.
Một thí dụ dễ hiểu hơn: Một người nhát hay sợ ma, trong
A-Lại-Da-Thức đã có những chủng tử của sự sợ hải. Một đêm kia, khi trở về nhà,
mở cửa phòng tối om, thấy một vật màu đen lù-lu đứng ở góc phòng. Thế là vì quá
sợ hãi, anh ta vừa chạy vừa la: “ma! ma! Cứu tôi với”. Cũng vì quá sợ nên mất
sáng suốt mà anh ta quên luôn không còn nhớ hồi chiều, trước khi đi ra khỏi
nhà, chính anh đã đem treo chiếc áo dài màu đen ở chỗ đó.
Trường hợp này, chiếc áo dài màu đen đã bị anh ta “biến-kế-sở-chấp”
nên tưởng là con ma đứng đó.
Rồi nay nhờ có “ý-tha-khởi-chấp”nên anh nhìn thấy
được sự vật một cách đúng hơn.
- Ý-Tha là: dựa vào, ỷ-lại vào. “Tha” là người khác hoặc
vật khác. Ỷ lại vào người khác nên anh ta mới nhận ra cái áo hồi chiều. Những
người lân cận, nghe tiếng la bèn cầm đèn chạy vào soi sáng căn phòng. Lúc đó,
con ma ở đâu không thấy mà đó chỉ là một chiếc áo dài đen mà thôi. Nhờ vào
người khác có đèn mà anh đã nhận ra chiếc áo là chiếc áo, không còn tưởng đó là
con ma. Và anh cũng như đa số chúng ta đều cho nhận xét của anh là đúng, không
còn nghi ngờ gì nữa.
Nhưng đức Phật lại dạy rằng:”nhận xét thế cũng chưa
phải là đúng hẳn” Chỉ khi nào ta nhìn thấy chiếc áo đen đó với
“Viên-Thành-Thật-Tánh” của nó thì mới là đúng đắn. “Viên” là viên mãn, “Thành”
là thành tựu, “Thật” là chơn thật. Cái áo là một “Pháp”. Muốn nhìn “Pháp” này
cho đúng thì phải nhìn được thể tánh chân thật bất biến của nó. Đó là thể-tánh
chân như ở trạng-thái nguyên thể của nó.
Thể tánh này thường trụ bất diệt, hoàn toàn
không bị chi phối bởi nhân duyên sanh diệt. Tất cả các pháp trong thế gian đều
phải được nhìn như vậy mới đúng hoàn toàn. Và khi nhận xét đúng , ta sẽ hành
động đúng. Có điều là muốn nhìn được một cách toàn vẹn như vậy ta phải có một
trí-tuệ khá cao. Tất cả những “thức” của chúng ta đều được tinh luyện một cách
sáng chói, không còn bị che lấp bởi những màn vô minh, những vọng tưởng chấp
ngã nữa thì mới sáng suốt được. Ta phải nhìn được tự tánh Chân-Tâm của chính ta
trước đã. Ngày này tâm ta còn dong ruổi chạy theo những ảo-ảnh phù-du, những
lạc thú nhứt thời thì Chân-Tâm vẫn còn bị che lấp, ta không sao có thể nhìn
thấy cái “Bản-Lai Diện-Mục” của chính ta, nói chi tới sự hiểu biết cái
“Viên-Thành Thật-Tánh” của Vạn-Pháp.
Chỉ những bậc Chân Tu tới mức độ thật cao thì tất cả các
thức của họ mới thăng hoa được tới đỉnh tuyệt-vời để họ có được cái nhìn thấu
suốt được vạn-pháp. Lúc đó, thức không còn được gọi là thức nữa mà chúng đã
biến thành những trí.
1.- Năm thức trước biến thành: “Thành Sở Tác Trí”
2.- Ý-Thức biến thành: “Diệu Quan Sát Trí”
3.- Mạt-Na-Thức biến thành: “Bình Đẳng Tánh Trí”
4.- A-Lại-Da-Thức biến thành: “Đại Viên Cảnh Trí”
Đi sâu vào định-nghĩa và hành-dụng của những trí-tuệ kể
trên là một việc làm không thể nào hoàn hảo được. Vì trong nhơn-loại hiện nay
ít có người đã đạt được toàn thể bốn trí đó. Một người đã có đủ những trí nói
trên kể như đã tiến bộ đến một độ cao của một vị Phật, hay ít ra một vị Bồ-Tát
“nhứt sanh bổ xứ”.
Tuy nhiên, trên con đường khởi hành từ một phàm phu cho
tới quả vị Phật, trí của chúng ta một ngày một sáng tỏ và từng chặng một, chúng
ta vẫn đạt được những sự trong sáng đáng khích lệ. Nó giúp chúng ta mỗi ngày
một sáng suốt để có thể tự thắp lên những bó đuốc soi đường cho chúng ta đi.
Xin trở lại chiếc áo đen kể trên; Những người phàm phu
bình thường và không sợ ma sẽ nhận xét về chiếc áo đó như thế nào? Thường họ
bảo rằng:
- Chiếc áo này khá đẹp nếu mặc đi dự dạ hội chắc sẽ làm
ta nổi bật.
- Hoặc chiếc áo này đi đôi với đôi giày bóng loáng chắc
sẽ làm tăng thêm vẻ đẹp.
- Hoặc áo đắt tiền mặc nó ta sẽ được nhiều người nể trọng
vì nó chứng tỏ ta giàu và sang trọng.
- Hoặc chiếc áo còn mới tinh, không còn chiếc nào tốt hơn
để đi chơi với người bạn mới quen.
Đại khái nó toàn là những nhận xét mang tánh chất “ngã
chấp” (nghĩ đến ta)
Và nếu ta suy nghĩ xa một chút ta có thể thấy có bóng
dáng của dục-tình quỷ sứ đứng ở đằng sau. Lẽ dĩ nhiên nếu họ có đạt được một
đêm vui tạm bợ thì rồi sau cũng khó tránh những hệ lụy phiền toái. Cuộc sống
của phàm phu thường thường là như vậy cả. Và họ sẽ xoay vần mãi trong sáu nẻo
luân-hồi khiến đức Phật Thích-Ca đã phải bao thương xót, mà đã phải vất-vả suốt
bao nhiêu năm chỉ cho họ con đường siêu-việt, con đường của hạnh-phúc
tuyệt-đối, con đường của giải thoát.
Đối với
những người bình thường, tự cho rằng: “ăn hiền ở lành” nhưng không nghĩ đến
chuyện tu hành gì cả, thì sự nhận xét về chiếc áo kể trên có lẽ cũng không khác
bao nhiêu qua sự nhận xét của phàm phu. Thế nhưng, đối với người đã phát tâm đi
vào con đường đi tìm chơn lý, dù chỉ mới tu chưa có gì cao thâm cả, nhưng
A-Lại-Da-Thức đã có được những chủng tử đầu tiên dẫn dắt họ trên con đường
hướng thiện thì dù quan sát cái áo hay bất cứ một đối tượng nào cũng đưa họ tới
những nhận xét khác hơn. Ví dụ: Cái áo nó có thể là đối tượng của “Bồ-Đề-Tâm”.
Cái áo này được tạo nên do biết bao công lao của người thợ
dệt vải và người thợ may, đó là chưa nói đến người canh tác vun trồng và cả
chính cây bông vải nữa, rồi chúng cũng đã phải trải qua biết bao dãi nắng dầm
mưa. Tất cả chúng sanh, dù là người hay là cây cỏ đều thật đáng thương trong
vòng luân-hồi sanh tử. Vì thương các chúng sinh đó nên ta phải phát nguyện tu
hành tinh tấn để sau này có thể trở lại lập hạnh bồ tát góp công giúp nước cứu
đời.
Cái áo đó cũng có thể chứa hình ảnh “Tam Thiên Đại Thiên”
thế giới.
Cái áo đó được thành hình nhờ cây bông.
Cây bông đã hút bao nhiêu chất lượng của nước, của gió,
lửa để tạo nên sự sống.
Nó mang hình ảnh mặt trời, của người săn sóc nó.
Ban đêm nó hòa nhập cùng mặt trăng, ánh sao biểu tượng
những thế giới xa xôi.
Cây bông và Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-giới chỉ là một.
Đứng về phương diện tuyệt-đối thì một hột bụi cũng có thể
chứa mội cõi bao-la. Do đó vấn đề lớn hay nhỏ không còn là vấn đề nữa. Điều đó
cho chúng ta thấy tánh-chất bình đẳng của Vạn-Pháp. Vượt khỏi mọi chấp trước,
người tu hành sẽ không còn thấy Nhị-Nguyên đối đãi nữa. Tâm trong sáng hội nhập
làm một cùng bản-thể của vũ-trụ bao-la.
Dĩ nhiên càng tu lên cao thì “Thức” và “Trí” càng trong
sáng. Những thần thông diệu dụng sẽ nẫy nở. Những hiểu biết sẽ không còn bị
những giới hạn ngăn cách nữa cho đến ngày đạt được “Chánh-Đẳng Chánh-Giác”.
Những quang-năng của các vị chơn tu là điều chúng ta khó có thể nghĩ bàn, vì
chúng ta chưa có những chứng nghiệm tâm-linh như những vị đó. Do đó nếu có nói
thì cũng chỉ là nói theo sách vỡ được truyền lại mà thôi. Muốn hiểu biết thêm
về những vấn đề “Duy-Thức” cao thâm khác không cách gì khác hơn là chính chúng
ta được hoàn toàn trong sáng, đứng trên tất cả mọi thiện ác đối đãi để phần
Phật-Tánh trong mỗi người chúng ta được phát huy một cách tối đa. Lúc đó mới có
hy vọng đạt được “Đại-Viên Cảnh-Trí”.
Duy-Thức-Học khó mà tóm tắt trên vài trang giấy mà còn
rất nhiều vấn đề đầy hứng thú khác nữa. Thế nhưng, người nào ưa thích môn học
này sẽ bỏ thêm nhiều thì giờ để học hỏi thêm.
Nơi đây, chỉ xin phép đưa ra một vấn đề cuối cùng là
chúng ta làm thế nào để xóa sạch các “vết đen” và ngay cả các “vết son”
của A-Lại-Da-Thức. Có người cho rằng, ta làm một “hành động thiện” (như bố thí
chẳng hạn) A-Lại-Da-Thức ghi một nét son. Nhưng chúng ta lại phải sống thêm một
kiếp nữa để thụ hưởng thành quả của hành động này. Do đó làm sao thoát khỏi
luân-hồi sinh tử?
Và họ kết luận là không nên làm ác là dĩ nhiên nhưng cũng
không nên làm cả việc thiện nữa ! Vậy có đúng hay không? Người viết xin trả lời
ngay; không nên làm ác là đúng. Nhưng nếu không làm gì cả (tức là cả thiện lẫn
ác) tức là đã chấp vào “Hư-Vô”. Chính cái Hư-Vô sẽ trói buộc chúng ta. Và nếu
ta đã bị trói buộc vì bất cứ cái gì, kể cả cái “Hư-Vô” thì chúng ta không thể
nào thực hiện được sự “tự do, trong sáng tuyệt đối”. Vậy ta phải làm
thế nào để có thể vẫn bố thí mà không “bị” hưởng thành quả của hành động vậy?
Điều này Phật đã dạy rõ ràng:”Phải thực hiện “Bố Thí
Ba-La-Mật” (Là bố thí mà tâm hoàn toàn vắng lặng, hoặc không nổi lên một vọng
niệm mong cầu phước báo nào). Ta bố thí mà hoàn toàn không thấy có người được
bố thí, có của bố thí, có hành động bố thí, ngay cả chính ta, cũng không thấy
liên quan đến sự bố thí nữa. Theo Phật như vậy mới là đúng cách.
Tu tập theo hạnh “Lục Ba-La-Mật” gồm :” bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.”
Ta phải thực hiện tất cả bằng “một cách Ba-La-Mật” như
trên thì mới là đúng cách.
Nếu gặp phải một oan-ức sẽ không để động tâm (tức là
không khiếu nại)
Nếu ta bị kẻ khác làm nhục và nếu tu “Ba-La-Mật” thì ta
sẽ thấy; không có kẻ làm nhục, không có người bị nhục, cả mối nhục cũng không có... Thế mới là “Nhẫn Nhục
Ba-La-Mật”
Còn những “vết đen trong A-Lại-Da-Thức” thì sao? Có thể xóa bỏ được không? Thưa rằng cách xóa bỏ thường tình nhứt là trả cho xong nghiệp báo. Vì định
luật nghiệp-báo tác dụng rất mạnh mẻ hầu như không ai có thể tránh khỏi. Thế
nhưng, đối với người tu, có thể sẽ được trả một cách nhanh chóng hơn hoặc nhẹ
nhàng hơn. Sự thành tâm sấm hối cũng sẽ làm giảm nhẹ khá nhiều nghiệp báo nặng
nề.
Ví như: Một người can tội trộm cắp chẳng hạn, ngoài sự sấm-hối sẽ mang đồ trộm trả lại cho chủ nó.
Người can tội sát nhân sau khi thành tâm sấm hối sẽ để cả quảng đời còn lại làm
ngược lại sát sanh. Người đó có thể vẫn phải trả nghiệp nhưng chắc chắn sẽ nhẹ
hơn. Rồi một đêm nào đó, anh ta có thể nằm mơ thấy có người đâm anh bằng một
lát dao chẳng hạn, thế là trả xong mối nợ.
Vậy ta cần nhớ, A-Lại-Da-Thức là một thức quan trọng bực nào. Ví dầu ta có chết nó vẫn không mất mà sẽ theo
ta mãi mãi cho đến ngày nó biến thành “Đại-Viên Cảnh-Trí”.
Tóm lại, xin vắn tắt về vấn đề “A-Lại-Da-Thức” sẽ dẫn dắt
con người ra sao, sau khi chết:
Chết là gì? Đối với đa số nhơn loại, chết là một bản án
mà tất cả mọi người sẽ phải lãnh.
Không ai có thể chứng nghiệm tâm-linh về cái chết. Và nếu
ta không tìm hiểu hoặc không sửa soạn trước thì cái chết quả là đáng sợ thật.
Chính vì thế mà nhiều người đã gia công tìm hiểu nó. Khi tắt thở, là tim ngừng
đập, các quan-năng ngừng hoạt động từ từ. Sau tám tiếng đồng hồ, A-Lại-Da-Thức
mới thật sự xuất ra khỏi thân thể. Từ đó, nó lại hoạt động như một giác-quan và
mới đầu, người chết không biết là mình đã chết. Dưới hình thức tâm-linh, họ vẫn
hoạt động như một người bình thường. Chỉ đến khi giao tiếp với những người thân
thuộc không còn thực hiện được nữa là lúc đó người chết mới biết là mình đã
chết,
Đối với một người bình thường, không có đức tin sâu đậm
hoặc không sửa soạn từ trước thì lúc đó cái tình cảm nổi lên mạnh mẽ, nhứt là
sự sợ hãi kinh khủng. Trong khi đó, A-Lại-Da-Thức vẫn hoạt
động, nhưng nó bị sự trì kéo của “nghiệp lực” một cách mạnh mẽ. Lúc đó linh-hồn
đứng trước một cơn phong ba bão táp để rồi bị cuốn hút đi đầu thai một cách
nhanh chóng. Trong trường hợp này, ý nghĩ cuối cùng của người chết giữ một địa
vị hết sức quan trọng. Một người suốt đời chỉ nghĩ đến sự tham-lam và ích-kỷ,
tất nhiên sự tham-lam đã nằm sâu trong tiềm-thức và đến lúc lâm chung ý nghĩ
cuối cùng cũng là sự tham lam.
Nó làm vẩn-đục A-Lại-Da-Thức và do đó sự cuốn hút sẽ đi
về các cõi u-tối.
Một người dâm đảng cũng vậy, ý nghĩ cuối cùng mang theo
dục-vọng thấp hèn, tất sẽ đưa A-Lại-Da-Thức bị cuốn hút vào các vùng súc sanh.
Có người cho rằng thường người ta bị bịnh hoạn lâu ngày hoặc già yếu rồi mới
chết. Ở tuổi già khả năng tình dục đâu còn gì đáng kể nên đâu có sợ bị cuốn hút
bởi giới cấm thứ ba. Nhưng các nhà y-học đã chứng minh rằng dù khả năng sinh-lý
của con người đã mất hẳn nhưng cảm nghĩ tình-dục vẫn còn rất mạnh trong một số người. Do đó ý nghĩ cuối cùng trong
trường hợp này cũng là một điều rất nguy hại nếu họ không biết và không tìm cách thanh lọc từ trước.
Những người phạm các giới cấm khác như: sát sanh, đạo
tặc, tà dâm, dối trá, rượu chè, nếu không có nhiều thiện nghiệp kéo lại tất
cũng sẽ trôi theo giòng nghiệp-lực của họ
để tới những cõi thấp hơn.
Thường thì các trường hợp luân-hồi xảy ra hầu như tức
khắc sau khi chết, chậm nhứt là sau 49 ngày, nhưng cũng có những trường hợp đặc
biệt. Thí dụ như: Người quá luyến-ái cõi trần, quá luyến-ái vợ con hoặc các
thân nhân cũng quá luyến ái họ thì sự luyến-ái quá độ tạo thành một sợi giây
ràng buộc rất mạnh khiến linh hồn không bị cuốn hút đi ngay. Nó cứ vất vưởng ở
nơi chốn cũ dưới hình thức những hồn ma bóng quế. Nó
cũng vẫn còn đủ cả hỉ, nộ, ái, lạc và nhứt là sầu bi. Trong trường hợp này vùng
hào quang quanh “thân xác” họ (thân xác tâm-linh) nhiều khi cô động lại trông
như những cục lửa mà đôi khi cá thể thấy được nơi các căn nhà nổi tiếng là có
ma. Nhưng không có căn nhà nào có ma một cách vĩnh-viễn cả. Vì trước sau gì thì
những tình cảm cũng phải phai lợt và những linh hồn đó cũng vẫn phải trôi theo
giòng nghiệp lực, chỉ mau hay lâu mà thôi. Mau thì vài tháng hoặc vài năm, lâu
thì có thể tới vài chục năm, ít khi tới hàng thế kỷ.
Các nhà y-học và tâm-lý-học hiện nay cũng đã xác nhận.
Nếu ta nghĩ nhiều về một vấn đề gì trung khu thần kinh chỉ huy về vấn đề đó sẽ
được mở rộng, các trung khu khác sẽ bị thu hẹp lại hoặc bị dập tắt. Một người
niệm Phật nhiều, trung khu “niệm Phật” sẽ gia tăng, các trung khu khác sẽ yếu
đi. Một cậu học trò siêng học, trung khu học hành và trí nhớ sẽ gia tăng, các
trung khu khác sẽ kém đi.
Riêng đối với những người đã sửa soạn tâm-thức từ trước
thì cái chết không những chẳng có gì đáng sợ cả mà trái lại, là một cơ hội quan
trọng để họ tiến những bước dài.
Những người có một cuộc sống cao cả, có nghĩa là họ đã
sửa soạn đầy đủ cho một chuyến đi thật vinh quang, như nhà tu tịnh-nghiệp là
một ví dụ. Ngay từ khi cuộc sống đang xuân nở họ đã phát nguyện vãng-sinh tịnh-độ, quyết không tạo thêm nghiệp mới dù vẫn
nhập thế một cách hùng tráng và quả cảm.
Niệm hồng danh đức Phật A-Di-Đà là một phương pháp hay.
Nhiều người biết trước được ngày sẽ ra đi. Nhiều người thoát xác ngay khi đang
ngồi thiền-định với chánh-niệm thay cho ý nghĩ cuối cùng. Không còn nghi ngờ gì,
hạnh nguyện vãng sanh của họ chắc chắn sẽ được đáp ứng. Năng-lực tiếp dẫn của
đức Phật A-Di-Đà có một sức mạnh lớn gấp nhiều lần những trì kéo của các cõi
ô-trược. Theo các nhà thiền-học đã mở được “Huệ” thì năng-lực này thường hiện
ra dưới hình thức một luồng ánh sáng vàng hoặc trắng hoặc rất trong sáng. Còn
có thể thấy được hóa thân của đức Phật A-Di-Đà, đức Quan-Thế-Âm cùng những bông
sen nở trên ao thất bảo và khi nào tới cõi tịnh-độ,
họ sẽ bước ra từ những bông sen đó. Sở dĩ có nhiều người không được tiếp dẫn là
vì họ không có hạnh nguyện vãng sanh Tây-Phương hoặc không có đức tin kiên cố.
Sự thiếu đức tin và hạnh nguyện làm cho ba động của A-Lại-Da-Thức của họ không
cùng một tần số với tần số ba động của các luồng sóng tiếp dẫn.
Có những người đã trót phạm nhiều giới cấm với một
A-Lại-Da-Thức hết sức nặng nề thì phải thành khẩn sấm hối trong lúc lâm chung
cùng với hạnh-nguyện không thối chuyển vẫn có năng-lực đưa họ vào đường cứu rỗi
dù ở phẩm trật kém hơn. Những kẻ đắm chìm trong vòng danh lợi, tham-sân-si và
dục-vọng thì lại nhiều vô số kể. Do đó ta không lấy làm lạ khi đức Phật dạy
rằng được sống ở một kiếp người là một điều đáng quý, nhưng tiếc thay, hầu hết nhơn loại sau khi lìa bỏ kiếp
người, chỉ muốn trở lại làm người bình thường thôi cũng là điều rất khó, nên
kinh Lăng-Nghiêm đã dạy: “Bỏ mất thân xác người, muôn kiếp khó tìm lại được”. Những người căn cơ chưa được cao lắm thường nhờ một số
nhà tu hay một vài thân nhơn giúp đở trong lúc lâm chung, gọi là “người hộ
niệm” Vậy thì dù có người hộ niệm hay không, vấn đề quan trọng là phải luôn cẩn
trọng với ý nghĩ cuối cùng. Điều này không chỉ đúng với Phật-Giáo mà cũng đúng với hầu hết các tôn-giáo,
như bên Ấn-Độ-Giáo, thánh Gandhi là một trường hợp điển hình. Ai cũng biết
thánh Gandhi là một nhà giải phóng vĩ đại của dân-tộc Ấn, cha đẻ của thuyết
“bất bạo động”. Suốt bao năm trời tranh đấu với thực dân Anh, Ngài chỉ có một
thứ khí giới, đó là lòng “Nhân-Ái”. Nhưng không hiểu vì nghiệp quả nào khiến
cuối cùng ngài đã bị một kẻ cuồng-tín bắn chết. Trước khi chết ngài giơ tay lên
và nói: “Xin tha tội cho kẻ bắn mình” Tất nhiên cả thế giới phải thán
phục sự cao cả của ngài.
Sự tha tội bằng lòng cao cả là một điều đúng không sai,
nhưng đứng trên phương diện “Duy-Thức” thì sự tha tội ngay lúc đó chính là một
sự cứu rỗi cho chính ngài Gandhi trước đã. Vì sao? Vì trong lúc đó, người bị
bắn hết sức đau đớn, mà lại phải chấm dứt con đường cách mạng đang theo đuổi và
đang cần thiết sự có mặt của mình. Nếu trong lúc đó, tâm-thức của ngài Gandhi
nẩy lên một sự khó chịu hoặc một tức giận hận thù kẻ đã chấm dứt thì ý nghĩ
cuối cùng của ngài chắc chắn sẽ kém trong sáng. Nghiệp-lực chắc chắn sẽ tác
dụng tức khắc ngay trên A-Lại-Da-Thức của ngài và nó sẽ lôi kéo ngài vào con
đường thù hận. Xuyên qua việc làm của ngài cho ta được biết, chắc chắn ngài đã
nắm vững những vấn đề kể trên một cách rất sâu sắc.
Ở thế kỷ 20 đã qua, đánh dấu những bước tiến vĩ-đại của
khoa-học. Việc xử dụng năng lượng hạt nhân, khoa-học không gian, tia sáng laser
là những nét đậm đáng kể. Trong y-học và thiên-văn-học cũng có nhiều phát-kiến
quan trọng. Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ, sự phát minh ra máy điện tử
góp một phần không nhỏ vào đời sống của nhơn loại. Nhưng điều đáng ngạc nhiên
hơn cả là: Sự tiến bộ của khoa-học đã đẩy lui một số đức-tin có tánh cách
thần-bí, đồng thời lại đi gần tới những điều Phật dạy đã trên 25 thế kỷ.
Ai cũng từng biết Phật dùng “Huệ Nhãn” chỉ dạy về đời
sống của những con vi trùng trong một ly nước. Lúc đó, có ít người chịu tin,
cho đến ngày khoa-học phát minh ra kính hiển-vi. Ta cũng đã biết rằng tất cả
các sinh-vật trên thế gian này đều có giác-quan, do đó có một A-Lại-Da-Thức. Từ
những loài thực-vật thô sơ đến các loài động vật và sau cùng là loài người,
A-Lại-Da-Thức vẫn theo sát từng cá nhân một qua hàng triệu triệu kiếp luân-hồi
cho đến khi thành Phật thì nó mới biến mất để trở thành “Đại-Viên Cảnh-Trí”
Một con vi-khuẩn là một vật trung-gian giữa thế-giới
vô-sinh và thế-giới hữu-sinh. Dù ai cho nó thuộc loại vô-sinh cũng được hay cho
nó là hữu-sinh cũng đúng.
Từ trước cho đến thế kỷ 20, chúng ta hầu như không biết
gì đến cấu-trúc của những sinh-vật này cho tới khi hai nhà bác-học James Watson
và Francis H.Crick tìm ra sự liên hệ của chúng với hai chất RNA (Ribonucleic
Acid) và DNA (Desoxyribonucleic acid). Ngày nay, người ta đã có những hiểu biết
tiến bộ hơn về các loại vi khuẩn, và đối với những vi khuẩn thô sơ, cấu trúc
của chúng chẳng khác gì cấu trúc của các phân tử hữu cơ RNA hoặc DNA.
Nhìn lại sự cấu-trúc của con vi-khuẩn HIV (vi khuẩn gây
nên bịnh AIDS, một bịnh thời sự) được các khoa-học-gia thuộc Trung-Tâm
Nghiên-cứu CHIRON trình bày. Nhìn trên biểu đồ của vi-khuẩn này khi chúng đang
sanh sản trong một tế bào bị nhiễm trùng, ta thấy nó được tạo bời hai nhánh DNA với
chi-chít những chữ ATCG nối liền nhau:
“A: Adenine
“T: Thymine
“C: Cytosine
“G: Guanine
ATCG được gọi là những bases: A bao giờ cũng được nối
liền với T, tạo thành cặp A-T
C bao giờ
cũng được nối liền với G, tạo thành cặp C-G
Tất cả có 9737 cặp bases này trên thân xác của con AIDS
virus. Mỗi cặp A-T hoặc C-G được gọi là một chủng-tử được sắp xếp trên nhánh
DNA.
Nghiên cứu về sự sắp xếp những chủng tử này trên nhánh
DNA được gọi là sequencing (xếp thứ tự) Chính thứ tự của những chủng tử này đã
tạo nên tánh-chất của những con vật, dù nhỏ bé thô sơ nhưng cũng có đủ cả
cảm-giác, trí khôn hoặc ngu độn (vô-minh). Khi chúng tấn công những tế bào của
cơ thể con người thì con người sanh ra những kháng-thể (antibodies) để chống
lại chúng. Nhờ sự tinh khôn, chúng biết biến đổi cấu-trúc (Mutation) để tránh
né được sự chống trả của các kháng-thể và bảo toàn sự sống. (Điều này gặp khó
khăn cho sự chế tạo các thuốc chủng). Những con vật nào nghiệp xấu hoặc vô-minh
không biến đổi kịp thì bị tiêu diệt.
Đối với sanh vật đơn bào, chúng mang theo những Nhiễm-Sắc-Thể (Chromosomes).
Trên những nhiễm sắc thể này, người ta tìm thấy những căn mang tánh cách
di truyền của con vật gọi là những gènes (di-truyền-căn). Thường những nhiễm
sắc thể này cũng được cấu tạo bởi DNA. Chính những DNA này, nói rõ hơn, sự sắp
xếp những chủng tử trên những DNA này đã chỉ huy số mạng của con vật.
Hiện nay, khoa học đã phát minh được những phương pháp
hóa-học có thể cắt xén hoặc sắp xếp lại thứ tự bằng cách ghép (splicing) những
chủng-tử A-T hoặc C-G trên DNA của các tế bào để bắt con vật đơn-bào hay các
tế-bào sống phải theo ý muốn của con người. Ở đây, người viết xin miễn đi sâu vào vấn đề quá chuyên môn và phức-tạp. Chỉ biết rằng ngành nghiên cứu tuy gọi là
recombinant DNA hiện mở ra những phạm vi nghiên cứu vô cùng rộng lớn.
Bước lên đến loài người là loài thượng đẳng hơn cả trong
cõi Ta-Bà này thì sự nghiên cứu mang tánh chất phức-tạp hơn nhiều. Loài người
cũng có những nhiễm-sắc-thể. Trên những nhiễm-sắc-thể cũng có những căn
nguyên di truyền gọi là gènes và những nhiễm-sắc-thể này cũng được tạo bởi DNA.
Thế nhưng DNA của loài người rất phức tạp. Thay vì chỉ có
khoảng trên 9000 chủng tử như AIDS virus, người ta ước lượng có tới 3 tỉ
chủng-tử A-T hoặc C-G trên DNA của người. Người ta đang làm sequencing (nghiên
cứu thứ tự) những chủng-tử đó. Nhưng nếu làm xong và vẽ được cái biểu đồ DNA
của loài người thì phải mất rất nhiều giấy mực. Do đó người ta chủ trương thu
gọn từng đoạn một rồi dùng máy computer để ghi lại những dử-kiện về DNA của
người. Đến khi cần nghiên cứu, nhà bác-học chỉ bấm máy lên là có ngay đoạn
nghiên cứu. Nghiên cứu về các đoạn DNA của loài người, lại mở ra một phạm vi vô
cùng rộng lớn và thích thú. Hiện nay người ta đã tìm được những chủng tử nào
đặt ở đoạn nào thì sẽ chỉ huy số mạng của con người như thế nào. Một số các
bịnh di truyền chẳng hạn đã tìm thấy nguyên do bằng những chủng-tử trên một
đoạn nhứt định của DNA.
Ngay đến giới cảnh sát hiện cũng đã tìm ra được một số
những chủng-tử trên DNA chỉ huy tâm-thức của những kẻ tội phạm. Như vậy thì có
sự liên hệ nào giữa A-Lại-Da-Thức của con người với DNA mà họ mang theo hay
không? Mặc dầu A-Lại-Da-Thức là cái mà ta không thể nhìn thấy, nhưng phát-kiến
mỗi ngày một sâu rộng về các gènes, các DNA có thể cho ta một hình ảnh tượng
trưng của A-Lại-Da-Thức. Vì sao?
1/- Vì DNA mang theo các chủng-tử tượng trưng cho
nghiệp-thức của con người qua các nẻo luân-hồi. Các chủng-tử đó khi gặp đúng
“duyên sanh” sẽ chỉ-huy hành-động của con người đó. Người đó sẽ bị chỉ-huy từ
trong siêu-thức, khó bề cưỡng lại được,
chỉ trừ khi họ luôn luôn cảnh giác, luôn luôn tìm cách thăng hoa tâm-thức.
Thí dụ: Một kẻ chết đi, mang theo một mối hận thù mà anh
ta quyết sẽ trả. Chủng-tử hận thù nằm trọn trong A-Lại-Da-Thức nhiều năm nhiều
kiếp. Cho tới một kiếp nào đó DNA của anh ta có những chủng-tử A-T và C-G nằm ở
vùng hận thù. Tới khi nghiệp-thức đưa đẩy anh ta tới những cơ-hội đã
trả hận, dù lương-tâm le-lói có cố gắng cản ngăn, nhưng anh ta vẫn bị điều
khiển mạnh mẽ từ trong tâm-thức, với tiếng kêu gào của thù hận và anh ta khó có
thể cưỡng lại được hành động của ngón tay khi bấm
vào cò súng.
Nhưng giả dụ như anh ta là một người tu hành và đã học
được sự tha thứ. Những chủng-tử trên vùng thù hận sẽ mất dần cùng lúc với sự
trong sáng của tâm-thức thì những cơ hội trả hận thù sẽ không còn đủ sức đưa
anh ta vào tội ác nữa.
2/- Các chủng-tử A-T và C-G vì hết sức nhẹ nên dễ bị thu
hút bởi các sức mạnh tinh-thần (dầu tinh-thần của một con người bình thường).
Sự sắp xếp của chúng mới là điều khá quan trọng. Chúng sẽ được sắp xếp theo
nghiệp-lực của chủ-thể. Cũng có những vùng gọi là vùng vô-ký. Mặc dù cũng vẫn
có những chủng-tử A-T và C-G nhưng người ta không biết nó chỉ huy vấn đề gì
trong cuộc sống con người. Ta có thể coi những vùng đó tượng-trưng cho sự cao
cả của con người đứng trên mọi thiện ác.
Sự sắp xếp những chủng-tử không phải là cố định. Một nhà
tu với tâm-thức một ngày một trong sáng có thể cải đổi sự sắp xếp này. Nếu
không thì biểu đồ DNA chính là một lá số tử-vi hết sức chính xác mà người ta có
thể “xem” được ở mỗi cá nhân từ khi được lọt lòng mẹ. Tuy nhiên, lúc nào cũng
nên nhớ rằng: “Đức năng thắng số”
Kết luận bài viết đúc kết hôm nay:
Những điều đã trình bày trên đây hiện đang được hàng trăm
các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới gia công nghiên cứu và chứng nghiệm.
Chúng ta chỉ cần “ngồi chờ” khoa-học tiến bộ trong một
thời gian nữa trước khi đi đến những kết luận vững chắc. Nhưng xin nhớ rằng,
ngồi chờ, nhưng cố nâng cao tâm-thức cho thật trong sáng, đứng trên mọi “thiện
ác đáo đầu chung hữu báo” để nhìn thấy sự đời không có gì vô cớ mà
xảy ra.
Vì mắt phàm không thấy được những gì đã tích trử trong
A-Lại-Da-Thức. Chờ đến lúc nào đó sự việc phát hiện ra rồi, chừng đó mới hối
tiếc.
Kính mong người đọc bình tâm suy nghĩ và cố rán thực hiện
những lời dạy của các đấng Vô Hình khuyến dạy. Mong thay!
LÊ MINH TIẾN
Nhận xét