Thi:
Xuân nhật tùng lai xuân nhật tựu (1)
Đông chi nhiên hậu đông chi phân (2)
Kê du phong nguyệt bắc phương động (3)
Khuyển nhập yên hà Nam quốc an (4)
(Khi được hỏi về ý nghĩa của 4 câu thi trên, Ơn Trên giải bằng tiếng Nôm như sau:)
Câu (1)
Ngày Xuân, Xuân đến lại ngày Xuân
Mệnh nước vào Xuân hạn tứ tuần
Hội mở ngày Xuân, Xuân mở hội
Đoàn viên trăm họ, ấy ngày Xuân.
Câu (2)
Đông đến rồi đi, tức hạn Đông
Thiên cơ vốn dĩ chẳng thay lòng
Chánh tà tỏ rõ phân ngôi thứ
Giặc nước tàn cơn hạn cuối Đông.
Câu (3)
Cất tiếng gà kia chẳng quản công
Gió trăng góp lại một đêm ròng
Cơ binh lục quốc an đồ trận
Bạn, khách ngoài trong chuyển thế công.
Câu (4)
Sương chiều khói tỏa khắp non sông
Đợi gió mùa sang đổi sắc hồng
Chó sủa vào Xuân tan ác mộng
Quân dân hoan lạc đón Xuân nồng.
* * * * *
Xuân nầy khởi sắc xuân vui
Chó nhà ngoe nguẩy, vẩy đuôi đón chào
Chim hiền rối rít gọi nhau
Họp đàn tung cánh trời cao ai ngờ
Cuộc đời như thể giấc mơ
Ấy là vận hội duyên tơ đến kỳ.
(Chúng tôi xin lỗi vì không thể ghi xuất xứ.)
Nhận xét